Sự đóng góp của quân và dân Đà Nẵng vào chiến thắng 30-4-1975

6 lượt xem - Đăng vào
Tự vệ thành phố Đà Nẵng phối hợp Quân Giải phóng giữ gìn trật tự đường phố sau ngày giải phóng.  (Ảnh tư liệu)

Sự đóng góp của quân và dân Đà Nẵng vào chiến thắng 30-4-1975

.

Ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi, đánh dấu mốc son vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Góp phần vào chiến thắng chung ấy của cả dân tộc là sự đóng góp to lớn, đầy tự hào của quân và dân Đà Nẵng, một thành phố bên bờ sông Hàn kiên cường, bất khuất, đã vượt qua muôn vàn thử thách để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong những giờ phút quyết định của lịch sử.

Tự vệ thành phố Đà Nẵng phối hợp Quân Giải phóng giữ gìn trật tự đường phố sau ngày giải phóng.  (Ảnh tư liệu)
Tự vệ thành phố Đà Nẵng phối hợp Quân Giải phóng giữ gìn trật tự đường phố sau ngày giải phóng. (Ảnh tư liệu)

Vùng đất giàu truyền thống cách mạng

Từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đà Nẵng là một trong những địa bàn chiến lược trọng yếu của địch, nơi tập trung nhiều căn cứ quân sự lớn như sân bay Đà Nẵng, cảng Tiên Sa, đồi Sơn Trà, các trung tâm huấn luyện và chỉ huy quân sự. Với vị trí “cánh cửa miền Trung”, Đà Nẵng bị biến thành pháo đài kiên cố nhằm kiểm soát vùng duyên hải và làm bàn đạp tấn công các vùng giải phóng.

Trong hoàn cảnh đó, quân và dân Đà Nẵng đã kiên cường bám đất, bám dân, kiên trì đấu tranh, vừa chiến đấu vũ trang vừa làm công tác binh vận, chính trị. Các phong trào “bám đất, giữ làng”, “bám dân, diệt địch”, “thanh niên ba sẵn sàng”, “phụ nữ ba đảm đang” liên tục được phát động, làm tiêu hao sinh lực địch, củng cố phong trào cách mạng ngay giữa lòng địch.

Ngày 29-3-1975, quân ta với thế tiến công thần tốc đã giải phóng Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai miền Nam sau Sài Gòn, chỉ trong vòng 48 giờ. Quân và dân Đà Nẵng đã nổi dậy phối hợp cùng các đơn vị chủ lực như Quân đoàn 2, các Sư đoàn 304, 324, 2 và lực lượng vũ trang địa phương tổ chức tiến công vào các cứ điểm trọng yếu, đánh tan hơn 10 vạn quân địch, chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, giải phóng hơn 1 triệu dân. Chiến thắng Đà Nẵng không chỉ giải phóng một thành phố chiến lược, mà còn làm tan rã hệ thống phòng ngự của địch ở miền Trung, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiến vào chiến dịch cuối cùng, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Đóng góp trực tiếp vào Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

Sau khi giải phóng Đà Nẵng (29-3-1975), Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Bộ Chỉ huy Mặt trận Quảng Đà (Quảng Nam – Đà Nẵng) nhanh chóng tổ chức lực lượng cơ động tiến vào Nam tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sư đoàn 2 Quân khu 5 (nòng cốt là bộ đội Đà Nẵng) được lệnh cơ động thần tốc vào mặt trận Sài Gòn – Gia Định, phối hợp tấn công từ hướng đông nam. Một bộ phận lực lượng đặc công, bộ binh, pháo binh của lực lượng vũ trang Đà Nẵng (Tiểu đoàn 70, Trung đoàn 96, Trung đoàn 38) được bổ sung cho các mũi tiến công trực diện vào nội đô Sài Gòn. Đội hình của Đà Nẵng chủ yếu tham gia hướng đông và đông nam trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch.

Đà Nẵng nhanh chóng trở thành hậu cứ chiến lược, góp phần chi viện sức người, sức của cho Chiến dịch Hồ Chí Minh. Các lực lượng liên quan khôi phục hoạt động của cảng Tiên Sa, sân bay Đà Nẵng trong thời gian cực ngắn (chỉ 5-7 ngày) để tiếp nhận, vận chuyển quân khí. Trong đó hơn 300 chuyến hàng quân sự (vũ khí, xăng dầu, lương thực) đã được vận chuyển từ cảng Tiên Sa vào chiến trường miền Nam trong tháng 4-1975 hỗ trợ cho các quân đoàn đang chuẩn bị tấn công Sài Gòn.

Chính quyền cách mạng huy động nhân dân Đà Nẵng, đặc biệt thanh niên, phụ nữ, tham gia gánh vác vận chuyển, đóng gói, sửa chữa khí tài, xây dựng kho tàng hậu cần. Tổ chức các phong trào thi đua “Tất cả vì tiền tuyến lớn”: Các tầng lớp nhân dân Đà Nẵng ra sức lao động sản xuất, tiết kiệm, tăng gia sản xuất, ủng hộ tiền tuyến. Mặt khác, triển khai lực lượng ổn định trật tự xã hội nhanh chóng tại thành phố Đà Nẵng sau giải phóng như: thiết lập bộ máy chính quyền cách mạng tạm thời;  giữ vững an ninh trật tự, đảm bảo hậu phương vững chắc cho chiến dịch; tổ chức các đợt tuyển quân khẩn cấp nhằm huy động nhiều thanh niên Đà Nẵng xung phong nhập ngũ, hành quân cấp tốc vào Nam tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Hàng nghìn thanh niên Đà Nẵng đã tình nguyện gia nhập các đơn vị vũ trang sau giải phóng, nhiều người trong số họ trực tiếp có mặt ở Sài Gòn ngày 30-4-1975.

Những bài học quý báu

Ngày 30-4-1975, khi lá cờ cách mạng tung bay trên nóc dinh Độc Lập, người dân Đà Nẵng đã vỡ òa trong niềm vui thống nhất. Trong những giây phút lịch sử ấy, Đà Nẵng đã trọn vẹn góp sức mình vào bản anh hùng ca đại thắng mùa Xuân, khẳng định phẩm chất trung dũng, kiên cường của thành phố bên sông Hàn.

Chiến thắng của quân và dân Đà Nẵng trong mùa Xuân 1975 để lại nhiều bài học sâu sắc, đó là: Bài học về sự đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; bài học về sự chủ động, sáng tạo, thần tốc, táo bạo trong chỉ đạo, tác chiến; bài học về sức mạnh chính trị, tinh thần, ý chí quyết chiến quyết thắng của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Chiến thắng ngày 30-4-1975 là kết quả của sự tổng hợp sức mạnh toàn dân tộc, trong đó có sự đóng góp to lớn, đầy tự hào của quân và dân Đà Nẵng. Với tinh thần kiên cường, mưu trí, sáng tạo, quân và dân thành phố không chỉ làm nên chiến công giải phóng Đà Nẵng thần tốc ngày 29-3-1975, mà còn trực tiếp, gián tiếp góp phần quan trọng vào đại thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những đoàn quân xuất phát từ Đà Nẵng, những chuyến hàng hậu cần tiếp tế từ cảng Tiên Sa, những tấm lòng hậu phương lớn lao đã hòa quyện thành dòng sức mạnh vô tận, tiếp lửa cho những bước chân thần tốc tiến về Sài Gòn.

Phát huy truyền thống vẻ vang ấy, ngày nay quân và dân Đà Nẵng đang chung sức, đồng lòng xây dựng thành phố trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh vững mạnh của cả nước, mãi xứng đáng với danh hiệu thành phố anh hùng trong lòng dân tộc.

LÊ MINH HÙNG

;
;
.
.

 

Nguồn: Báo Đà Nẵng

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

mười lăm − 5 =