Trang bản thảo và dáng bê xe đạp
Mỗi người một vẻ, rất nhiều đồng nghiệp thuộc nhiều thế hệ đã để lại trong tôi những dấu ấn và kỷ niệm giàu rung cảm, đậm chất nhân văn trong tháng năm mình công tác ở Báo Quảng Nam-Đà Nẵng từ tháng 3-1975 đến tháng 7-1997. Hai trong số họ là chú Nguyễn Thanh Sâm và anh Hồ Hải Học, những nhà báo kỳ cựu mà tôi học được từ họ nhiều điều thú vị lúc bước vào nghề.
![]() |
Nguyên Tổng Biên tập Báo Quảng Nam – Đà Nẵng Nguyễn Thanh Sâm.Ảnh: Tư liệu |
1. Đó có lẽ là một trong những bài báo đầu tiên của anh đăng trên báo Giải phóng Quảng Đà phát hành sau ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng. Tôi nhớ không lầm thì đó là một ký báo chí phản ánh những đổi thay của thành phố này sau ngày 29-3-1975 gói ghém cảm nhận giàu chất thiêng liêng của tác giả về giá trị của độc lập, hòa bình. Bằng lối vừa mô tả những điều tai nghe mắt thấy vừa bày tỏ xúc cảm một cách tinh tế, người viết muốn đưa người đọc đi quanh một vòng qua các xóm phố trong sắc diện mới để rồi kết thúc bằng một chỗ dừng khá đặc biệt là bến cảng ven sông Hàn nằm bên đường Bạch Đằng với chuyến dạo chơi tình cờ về đêm của chính mình.
Trong gió mát đưa lên từ lòng sông, tác giả lững thững vừa thả bước vừa hướng mắt về phía các chiếc tàu đang yên ả thả neo trên bến. Ở một chiếc tàu nước ngoài có dáng đồ sộ, các thủy thủ đứng vịn bao lơn nhìn phố xá và người qua lại với vẻ háo hức. Hẳn là các chàng trai nước ngoài này muốn xuống phố dạo chơi sau bao ngày lênh đênh trên biển? Tác giả dừng lại, thân thiện ngoái lên hỏi một thủy thủ sao không xuống tàu ra phố cho vui thì chàng trai kia thật thà đáp lại: “Chúng tôi chưa thể rời tàu vì chưa được phép của chính quyền địa phương”.
Ồ, ra thế. Bấy giờ anh mới chợt nhận rõ trong niềm ngạc nhiên thú vị: Hóa ra chừ mình mới thấm thía rằng đất nước mình đã độc lập tự do rồi. Đâu phải người nước ngoài nào, dù là bạn bè, cũng tự tiện ngang nhiên muốn đi đâu thì đi khi chưa có phép chủ nhà là mình. Bằng một chi tiết tinh tế mà sống động nhưng dễ bị lãng quên, người viết nhắc đến giá trị thiêng liêng của hòa bình, độc lập, nhấn mạnh cảm nhận của chính mình và đồng bào mình trong những khoảnh khắc đầu tiên vừa hồ hởi vừa bồi hồi được sống trên quê hương, xứ sở hoàn toàn được giải phóng. Với anh, người từng góp cả tuổi xuân cho chiến trường, thì đó còn là những nhắc nhớ sinh động về sự hy sinh của bao thế hệ cha anh cho ngày đất nước thôi còn phân ly, ngăn cách.
Anh, tác giả bài báo nhẹ nhàng và giàu ấn tượng này chính là nhà báo Hồ Hải Học, một trong những người từng phụ trách Báo Giải phóng Quảng Đà trong thời kỳ đầu Quảng Nam, Đà Nẵng giải phóng. Với văn phong nhẹ nhàng, sâu sắc và cảm xúc dồi dào của một cây bút trở về từ chiến khu, bài viết của anh lay động xúc cảm của nhiều người đọc lúc bấy giờ, trong đó có chàng sinh viên năm thứ nhất của đô thị miền Nam là tôi, vừa từ giã giảng đường để vinh dự tập tành viết báo bên các anh.
Qua bài báo này của anh Học cùng nhiều bài viết của các đàn anh đàn chị khác, tôi học được nhiều điều bổ ích và cần thiết của nghề nghiệp, từ óc quan sát, góc nhìn đa chiều đến khả năng so sánh, đối chiếu cùng độ liên tưởng để khai thác các tư liệu liên quan, giúp làm giàu thông tin cho trang viết và tô đậm chủ đề mà bài báo hướng tới. Được làm việc với những người đi trước như vậy thì không gì thú vị bằng. Bằng sự hồn nhiên của một người trẻ mới vào đời, tôi thấy mình ngày càng gần gụi với nghề báo và rồi công việc của một phóng viên trẻ vừa học vừa làm tự bao giờ khiến mình quên lãng chuyện trở lại giảng đường xa ngút phía trong kia.
Nhưng anh Học không chỉ hấp dẫn tôi bằng sự sắc sảo, nhân văn và tỉnh táo của một người làm báo lớp trước, thể hiện qua cách trò chuyện và qua các bài viết mà còn ở tình yêu nghề, sự chuẩn mực trong công việc hằng ngày. Các trang bản thảo viết tay của anh hồi đó thu hút sự ngưỡng mộ của tôi một cách đặc biệt. Tuồng chữ thẳng thớm, mạnh mẽ trên các trang giấy tinh tươm với phần chừa lề rộng thuận tiện cho việc biên tập, các bài viết bằng bút mực xanh trên giấy trắng của anh bao giờ cũng thấm đẫm chất nghề.
Càng ngưỡng mộ anh ở chi tiết liên quan đến nhận thức về nghề báo, thể hiện qua một chi tiết nhỏ trên trang bản thảo: dù mình viết chu chỉnh đến mấy, dù là lãnh đạo của Ban biên tập nhưng để bài báo hoàn chỉnh trước lúc đưa đến nhà in thì vẫn cần đến bàn tay và công đoạn chuyên nghiệp của đội ngũ biên tập. Mỗi lần dán mắt vào tuồng chữ của anh Học, tôi lại chợt nhớ nỗi ngạc nhiên của mình trong lần đầu ngồi họp bên cạnh anh, nghe anh nhỏ nhẹ hào hứng thầm ngân nga theo một giai điệu opera vang ra từ đâu đó bên ngoài cửa sổ căn nhà bên cạnh. Yêu đời và yêu nghề, với anh, dường như phải luôn đồng hành để có thể chuyển tải cảm hứng chân tình vào trang viết và đến người đọc.
2. “Anh H. đâu rồi, qua đây tôi bàn chút việc” là câu nói quen thuộc của chú Nguyễn Thanh Sâm mỗi lần ông xuất hiện trước cửa phòng phóng viên. Đôi kính lão trể xuống sống mũi sau lúc ngoái nhìn vào bên trong căn phòng im ắng, dáng đi nhanh của người quắc thước, sau câu nói, chú bước trở lại phòng Tổng biên tập ở kế bên chờ đợi. Anh em chúng tôi hầu hết thở phào, chỉ mỗi anh H bấy giờ xanh mặt bối rối đứng dậy rời khỏi bàn. Mệt rồi! Thế nào cũng bị ông sếp mắng quở vì một chỗ nào đó ngu ngơ ngớ ngẫn nơi trang viết, một lỗi sơ đẳng hoặc một vụng về thô thiển không thể chấp nhận đối với tay nghề của một phóng viên. Chúng tôi ngồi lại phòng mà hình dung nét lúng túng của người đồng nghiệp trẻ đang ngồi trước mặt người đứng đầu cơ quan để ngoan ngoãn lắng nghe ông “tra tấn”.
Nhưng đâu riêng anh H., hầu như anh em phóng viên trẻ chúng tôi dạo ấy, người nào cũng ít nhất đôi lần bị chú Sâm gọi vào phòng Tổng biên tập để la rầy hoặc nhắc nhở, chỉ vẽ về nghề nghiệp. Giọng chú nghiêm nghị nhưng lắm lúc pha chút cợt đùa để xoa dịu nỗi căng thẳng mà cấp dưới của mình có thể đang hứng chịu. Không hề vì ác cảm hay định kiến với cấp dưới xung quanh chuyện nghề, các dặn dò, nhắc nhở, thậm chí quở trách, của chú ngày ấy chỉ nhằm giúp các bạn viết trẻ rèn giũa tay nghề, nâng cao nghiệp vụ để chuyên chú với công việc nhằm cho ra nhiều tác phẩm hoàn hảo, giàu tính chuyên nghiệp.
Tổng biên tập của chúng tôi ngày ấy tỏ ra hào hứng khi khen ngợi giữa cuộc họp cuối tuần một bài báo giàu chất lượng của phóng viên hay một nỗ lực đáng khích lệ của đội ngũ tòa soạn sau số báo vừa ra lò được người đọc đánh giá cao. Ngày ấy, thật thú vị, chính chú Sâm là người trực tiếp biên tập bài viết của phóng viên, cộng tác viên sau lúc bài vở được chỉnh sửa và chuyển lên tay mình từ các trưởng phòng. Để biết bài viết của mình ra sao sau lúc qua tay ông sếp nghiêm khắc, chúng tôi thường rảo qua góc nhỏ đánh máy ở tòa soạn để nhờ các chị đánh máy cho xem lướt bản thảo của mình sau lúc được chỉnh sửa. Vui biết bao khi ai đó nhìn thấy nét chữ từ cây bút của Tổng biên tập chỉ nổi lưa thưa rải rác ở vài chỗ chứ không chằng chịt đỏ lòm tuồng chữ xóa đi hoặc thêm thắt của ông.
Nhiều người nhớ chú Sâm không chỉ với tuồng chữ đỏ mà còn ở cách sống khiêm tốn, giản dị của ông. Trong đó, cái dáng ông sáng sáng bê chiếc xe đạp của mình qua phòng khách để đặt ở nhà xe phía sau có vẻ là hình ảnh đặc trưng. Từ nhà riêng ở Nam Ô đạp xe mỗi sáng đến tòa soạn 23 Yên Bái, Tổng biên tập của chúng tôi ngày ấy đến nơi đôi lúc còn thở dốc, mồ hôi lấm tấm lưng áo. Nhưng thay vì dắt chiếc xe đạp đi thẳng vào phòng khách, ông cẩn thận vừa mang túi xách trên vai vừa bê xe qua nền nhà dài gần 20 mét để cất vào nhà xe ở phía sau. Ông không muốn đôi bánh xe để lại vết bụi trên nền nhà vừa được lau sạch.
Như các trang bản thảo kia của những người làm việc cùng tòa soạn với mình, ông muốn chúng ngày càng sạch sẽ tinh tươm…
NGUYỄN ĐÌNH XÊ
Nguồn: Báo Đà Nẵng