Những sắc màu gợi mở…

15 lượt xem - Đăng vào

Những sắc màu gợi mở…

.

“Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”, quan điểm ấy đã khẳng định đặc tính riêng có làm nên vẻ đẹp của thơ ca. Thơ nói bằng hệ thống hình ảnh, từ đó mà những thế giới gợi mở, hấp dẫn được nới ra khiến người đọc không ngừng liên tưởng, để rồi nhận lại những rung cảm sâu sắc. Tập thơ “Vực trắng” (NXB Hội Nhà văn, 2024) của nhà thơ Lữ Mai là một xác tín cho đặc trưng ấy của thơ ca.

 

Nhà thơ Lữ Mai sinh năm 1988, tốt nghiệp Khoa Viết văn Báo chí, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, hiện chị đang công tác tại ban Văn hóa, Văn nghệ của Báo Nhân Dân. Với bút lực sung mãn, nguồn cảm hứng dồi dào và một tinh thần lao động văn chương đầy nội lực, đến nay chị đã xuất bản gần hai mươi đầu sách với sự đa dạng về đề tài, thể loại và đã đạt được nhiều giải thưởng văn chương uy tín. Tập thơ “Vực trắng” ra mắt bạn đọc như một “đường gươm sắc” làm sáng hơn nữa căn tính thơ của chị. Tập thơ được kết cấu thành 6 phần, lần lượt là: Từ núi, Đi lạc, Nói bằng gai sắc, Trở về chạng vạng, Gửi Huế và Cánh tàn bừng giấc với tổng số 54 bài thơ sẽ mang lại cho độc giả những trải nghiệm văn chương đặc biệt.

Chủ thể thơ không sinh ra từ núi và gắn kết với núi rừng nhưng đọc những vần thơ trong “Vực trắng” người đọc ít nhiều cảm nhận được tình yêu núi rừng của chị. Những lát cắt, những khoảnh khắc và cả những phát hiện hết sức tinh tế của tác giả vì thế được thể hiện sống động trong từng tác phẩm. Màu sắc của núi rừng và dân tộc thiểu số tạo nên bức họa cho hành trình thơ trong “Vực trắng”.

Những “chuyến đi thoát cơn trầm mặc” cứ thế hấp dụ nhãn quan thi ca của độc giả. Sự thơ mộng và hùng vĩ của miền biên ải hiện lên với những nét phác đầy gợi cảm: “bọt nước vẽ hoa trắng/ thác âm ba tịnh độ chín tầng/ ta chọn cách soi mình hoang dại/ sỏi đá reo tiếng mèo rừng”. Những địa danh nổi tiếng của miền núi được thơ mang về gần trước mắt như Nguyên Bình, Bảo Yên, Khuổi My, Phia Oác… gắn với những sắc thái cảm xúc riêng của chủ thể trước cảnh vật và con người.

Nổi bật lên với những kết hợp ngôn ngữ đầy sáng tạo, mang lại hiệu ứng thẩm mỹ cao và những cảm giác thơ đầy thi vị, và cả những chiêm nghiệm sâu sắc thuộc về bản thể khi đứng trước những mùi hương riêng của núi, của trà sơn cước: “trước trà/ thấy mình lạ/ mỏm núi tím kia nhô ra một cái cây/ buồn mà không sao chết nổi” hay “cây nói bằng im lặng/ người nói bằng niềm riêng/ lau tím phất cờ/ vực trắng”. Những liên tưởng thơ ca đầy gợi mở cho bạn đọc thấu cảm mang đậm dấu ấn riêng của Lữ Mai: “khe suối nào vừa mở/ gầm sàn lăn lóc bí ngô/ ai nằm cạnh bầy trăng say ngủ”.

Trong dòng mạch vận động ấy của cảm hứng thơ, tập thơ cũng sẽ khiến cho người đọc được chiêm ngẫm một cách tự nhiên mà sâu sắc qua những ý tứ sâu xa tác giả gửi gắm. Những sắc màu khiến cho bức họa thơ trở nên có chiều sâu, vừa hấp dẫn, vừa đánh thức suy tư, trăn trở và phản tỉnh của độc giả. Về những hành trình siêu nghiệm của những giấc mơ con người: “lại nghe tiếng ai ngược gió/ người đi tìm người ra đi/ chưa kịp nghĩ về muôn điều kỳ lạ/ và thiết tha/ giông bão xóa đi rồi…”.

Những thao thức của chủ thể thơ cứ thế mà diễn ra trong những không gian thơ, những vùng hiện thực khác nhau. Dọc theo tập thơ, người đọc sẽ được đắm mình trong những “thủ thỉ” rất nữ tính, thâm trầm, sâu sắc và đầy dấu ấn riêng của nhà thơ về mảnh đất cố đô. Tác giả đã dành nhiều lao lực tinh thần cho xứ Huế thân thương, dẫu khiêm tốn nhận mình là “khách xa” nhưng sâu tầng trong đó là sự tha thiết, mến thương với con người và mảnh đất nơi đây.

Xứ Huế hiện lên trong thơ của Lữ Mai đầy ấn tượng với những miền mỹ cảm đặc sắc, bởi sự khác biệt trong lối cảm nhận và phác họa: “hỏi khách mơ chi/ chỉ một đường gươm sắc/ cài chấn song đuôi mắt cuối mùa/ mây quên lối dạ thưa không trú được/ mảnh trăng màu lục/ dáng xưa lững thững tơ vàng”. Cảnh Huế, khí chất Huế, người Huế từ góc độ lịch sử, văn hóa được nhà thơ tái tạo đầy liêu trai, thơ mộng với hệ thống thi ảnh vừa mang tính cụ thể, cá biệt vừa mang tính gợi mở và khái quát, từ đó đem đến những khoái cảm thẩm mỹ trước vẻ đẹp “tím những ngày xưa” của Huế: “nghe từ mây khói/ khe khẽ run trong vắt dấu hài/ bức tranh ấy nào ai vẽ nổi/ dòng Hương lặng tờ/ toan thở xanh sâu”.

Nhà thơ vốn là người đa cảm. Cái đa cảm đó khiến cho trái tim của người làm thơ luôn luôn được nới rộng về thời gian và không gian. Khép lại những chạm khắc núi rừng, với Huế, với những nơi mà cuộc lữ từng đi đến, tác giả lại tỉnh giấc, trở về trong tinh mơ với phố phường, với không gian sống của chính mình. Những phác thảo phố hiện lên trong tập thơ chính là những lắng đọng mà tác giả như thể đã có những khoảnh khắc dừng lại để quan sát, cảm nhận và ghi lại.

Hồn phố hiện lên bằng những tiếng gọi, những thổ lộ chân tình của nhà thơ: “phố của ta là chợ của người/ lời gốm sứ thong dong gió bấc/ chẳng cách nào qua nổi mùa xuân/ tận cùng rét mướt đầy dâng sóng sánh”. Và rồi, nơi phố cũng chứng kiến những thao thức, những chiêm nghiệm của chủ thể thơ về ký ức, để rồi tác giả tự thực hiện lấy cuộc hồi hương bằng những âm thanh lạ quen: “chợt thấy mình hồi hương trong tiếng chợ/ màu trắng hoa thiền một sắc không” hay “cánh đồng tháng năm oai oải/ tiếng cuốc đầy linh giác/ mơ đàn cá trốn tít trong núi/ sau mưa giông nảy nở tiếng cười”…

Mỗi người đọc sẽ có những cảm nhận và phát hiện khác nhau khi đứng trước văn bản ngôn từ cất lên từ đời sống. Hành trình tuyến tính của thời gian và tâm lý được nhà thơ Lữ Mai thể hiện trong tập thơ “Vực trắng” cứ thế lôi cuốn và gợi mở người đọc. Những bức họa bằng thơ mà tác giả vẽ nên bằng ngôn từ nghệ thuật đã mang lại những xúc cảm sâu sắc. Vực sâu mà thi tập tạo ra dường như đâu đơn thuần chỉ mỗi màu trắng, cơ chế ẩn dụ của thi ảnh và ngôn ngữ thi ca đã mở ra bao gam màu khác nữa cho người đọc…

TRẦN NGỌC

;
;
.
.

 

Nguồn: Báo Đà Nẵng

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

bốn × hai =