Chùm thơ ‘Xuân nhật’ của Nguyễn Khuyến

15 lượt xem - Đăng vào
Xuân trong thơ Nguyễn Khuyến không tràn đầy dương khí thế, cảnh xuân tĩnh lặng tựa hồ cảnh thu. Nhưng có lẽ nhờ thế mà vẻ quê kiểng, sự thanh vắng, yên bình của chốn điền viên thôn dã mới hiện lên rõ nét hơn. Ảnh: Tư liệu

Chùm thơ ‘Xuân nhật’ của Nguyễn Khuyến

.

Nhắc đến Nguyễn Khuyến, người ta nghĩ ngay đến tam thủ tuyệt thi về mùa thu. Nhưng ngoài chùm thơ về mùa thu, thi sĩ vườn Bùi cũng có chùm thơ “Xuân nhật” (I), (II), (III) sáng tác bằng chữ Hán như một vế đối với ba bài thơ mùa thu.

Xuân trong thơ Nguyễn Khuyến không tràn đầy dương khí thế, cảnh xuân tĩnh lặng tựa hồ cảnh thu. Nhưng có lẽ nhờ thế mà vẻ quê kiểng, sự thanh vắng, yên bình của chốn điền viên thôn dã mới hiện lên rõ nét hơn. Ảnh: Tư liệu
Xuân trong thơ Nguyễn Khuyến không tràn đầy dương khí thế, cảnh xuân tĩnh lặng tựa hồ cảnh thu. Nhưng có lẽ nhờ thế mà vẻ quê kiểng, sự thanh vắng, yên bình của chốn điền viên thôn dã mới hiện lên rõ nét hơn. Ảnh: Tư liệu

Có lẽ đã là thi sĩ thì không ai là không viết thơ về mùa xuân. Vì nếu có một cuộc cạnh tranh về thi hứng, thu sẽ là quán quân còn xuân là á quân. Đối với Nguyễn Khuyến, ông có vài chục bài thơ về mùa xuân. Xuân mang dương khí và thiên về cảm xúc tươi vui. Nhưng trong chùm thơ “Xuân nhật”, mùa xuân mang đầy ưu tư với những gam màu ảm đạm.

Là ngày xuân, lẽ ra cảnh sắc phải tươi tắn và ấm áp thì tác gia Nguyễn Khuyến lại vào đề với: “Sương khí mông lung mãn địa phi,/ Thần quang phiêu hốt hạn hi vi.” [1] (Xuân nhật I), “Li trúc hoành tà bán vũ âm” [2] (Xuân nhật II) và “Hàn vân mạc mạc vũ phi phi” [3] (Xuân nhật III). Sắc trời làm cho nhà thơ “Vọng xuân bất tri xuân dĩ quy” [4] (Xuân nhật III). Ba bài thơ nhưng trời xuân cùng một vẻ, hệt như chùm thơ mùa thu tả chung một sắc mây trời.

Nhưng cảnh thu thì đặc tả rõ nét, còn xuân thì cả ba bài không thấy rõ thần sắc của mùa xuân. Kể cả giò thủy tiên cũng chưa bung nở, mà hạt kim quất cũng đang chờ nứt vỏ để đâm chồi nảy lộc[5]. “Xuân nhật” sao cứ âm sâm. Chẳng có pháo chuột, tranh gà như xuân trong thơ Tú Xương; không nô nức yến anh và nườm nượp ngựa xe, quần là áo lụa rộn ràng chơi xuân như trong thơ Nguyễn Du; cũng chả có mai, đào, cúc nở rộ chào xuân giống thơ Nguyễn Trãi… Xuân trong thơ Nguyễn Khuyến không tràn đầy dương khí thế, thảng hoặc gặp chút hớn hở của cỏ cây thế rồi thôi, cảnh xuân tĩnh lặng tựa hồ cảnh thu. Nhưng có lẽ nhờ thế mà vẻ quê kiểng, sự thanh vắng, yên bình của chốn điền viên thôn dã mới hiện lên rõ nét hơn.

Nói như nhà phê bình Chu Văn Sơn thì “Nó là không gian Nguyễn Khuyến, là bầu khí quyền riêng của Tam Nguyên Yên Đổ” [6] rồi. Mà giá trị cố hữu của làng quê cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.

Nhưng có lẽ hơn thế, trời sầu u ám và ban mai bị che lấp bởi tường mây rào mưa khiến xuân không thể hiển lộ, âu cũng là tác giả đang muốn gợi lên những u uẩn trong lòng mình, những tâm sự sâu thẳm mà từ độ ca bài trở lại vườn Bùi đã không thể nào bộc bạch được.

Ở chùm thơ xuân này, tác giả cũng lại dùng thủ pháp lấy động tả tĩnh và gợi ra không gian bao la, quạnh quẽ của làng quê. Đó là khi “Lạc lõng canh khuya tiếng hạc qua” (Xuân nhật I)[7], là lúc “Ngang trời một tiếng chim qua” (Xuân nhật II) [8] hay tiếng chim cá bay lặng trong “Xuân nhật III”. Những hình ảnh, âm thanh ấy gợi lên một điều rất quen thuộc. Đó là tiếng cá đớp động chân bèo, là tiếng ngỗng nước nào rơi xuống từ từng không. Những âm thanh của mùa thu đánh động lòng người, thì những tiếng khẽ khàng trong trời xuân cũng làm hồn thơ gợn sóng. Những thanh âm ấy khiến cho đất trời thêm thăm thẳm, mênh mông thì cũng làm cho lòng người thêm cô liêu, hoang hoải. Mà có lẽ sự hoang vắng, vẻ u buồn của cảnh cũng chính là lòng người khi “Cửa ngoài vẫn mở, khách chừng thưa” [9], là tâm tư khi tuổi già vắng bạn trong “Xuân nhật II” và lúc “Bắc song độc chước đối nhiên tuý” [10]. Mang nỗi trống trãi, cô đơn và u uất thế ấy nên nhiều khi “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” [11] đấy thôi.

Trong ba bài thơ mùa thu, ta bắt gặp hình ảnh ông Đào khép lại bài “Thu vịnh” thì trong chùm thơ mùa xuân, ta gặp lại hình ảnh ông Đào ở câu kết bài “Xuân nhật II”: “Ông Đào chỉ có cây đàn làm thân” [12]. Điển cố ấy đã thể hiện được khí khái của một nhà Nho hành đạo, thú điền viên nhàn tản đã thể hiện khí chất của một nhà Nho ẩn dật. Cả hai đã hoà vào để tạo nên cốt cách thanh cao trong tâm hồn Nguyễn Khuyến.

Có lẽ so với chùm thơ “Xuân nhật” thì chùm thơ thu có phần vượt trội hơn ở khía cạnh nào đó. Nhưng nói cho cùng thì đó cũng là những trăn trở, bất an của một cố lão. Mà nỗi lòng của thi nhân vườn Bùi, người ngày nay vẫn có thể thấu cảm dù rằng đã 115 năm ông giã thế từ trần.

NGUYỄN NHẬT THANH

[1] Dịch thơ là: “Là là mặt đất lớp sương sa,/ Ánh sáng ban mai vẫn mập mờ” (Nguyễn Văn Tú dịch, Thơ Nguyễn Khuyến, tr.126, NXB Kim Đồng, 2023)
[2] Câu thơ trên có thể dịch nghĩa là hàng rào tre ngiêng ngả lung tung, trời nửa mưa nửa u ám
[3] Câu này có thể dịch nghĩa là mây lạnh mịt mờ, mưa bay bay
[4] Câu này dịch thơ: “Mong xuân xuân đến không hay” (Dương Xuân Đàm dịch, Thơ Nguyễn Khuyến tr.128, NXB Kim Đồng, 2023)
[5] Ý lấy từ hai câu thực: “Viên kim quất hạch do tàng giáp,/ Bồn thuỷ tiên hoa vị giải y” (“Xuân nhật I”, Thơ Nguyễn Khuyến tr.125, NXB Kim Đồng, 2023)
[6] Chu Văn Sơn (2023), Thơ, điệu hồn và cấu trúc, tr.305, NXB Hội Nhà văn
[7] và [9] “Xuân nhật I” Nguyễn Văn Tú dịch, Thơ Nguyễn Khuyến, tr.126, NXB Kim Đồng, 2023
[8] và [12] “Xuân nhật II” Dương Xuân Đàm dịch, Thơ Nguyễn Khuyến tr.128, NXB Kim Đồng, 2023
[10] Câu này dịch nghĩa: “Một mình uống rượu ngả ngiêng bên của sổ hướng Bắc” (Thơ Nguyễn Khuyến, tr.129, NXB Kim Đồng, 2023)
[11] “Thu ẩm” (Thơ Nguyễn Khuyến, tr.46, NXB Kim Đồng, 2023)

 

;
;
.
.

 

Nguồn: Báo Đà Nẵng

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

ba × hai =