Rau, cây thuốc hoang dã ở Nam bộ thời khẩn hoang

14 lượt xem - Đăng vào
Người dân thu hoạch cây rau mác, một loài rau dại có công dụng chữa bệnh. Ảnh: H.H

Rau, cây thuốc hoang dã ở Nam bộ thời khẩn hoang

.

Thời khẩn hoang ở Nam bộ bắt đầu từ khi có sự dịch chuyển dân cư từ phía Bắc xuống phương Nam. Khi ấy, Nam bộ vẫn còn là vùng đất hoang vu, hiểm địa. Các chúa Nguyễn đã có công mở mang đất nước về phía Nam và những lưu dân người Việt đã đến định cư khai khẩn Nam bộ từ đầu thế kỷ XVII.

Người dân thu hoạch cây rau mác, một loài rau dại có công dụng chữa bệnh. Ảnh: H.H
Người dân thu hoạch cây rau mác, một loài rau dại có công dụng chữa bệnh. Ảnh: H.H

Công cuộc khẩn hoang kéo dài liên tục đến thế kỷ XX. Buổi đầu, ngoài nguồn lương thực mang theo có hạn, lưu dân đã biết khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên thực phẩm có trong môi trường tự nhiên của vùng đất phương Nam rất phong phú để tự nuôi sống, tồn tại và phát triển. Ngoài cá tôm, chim thú, thì một loại thực phẩm xem chừng đơn giản nhưng quan trọng, ấy là rau, tiếp đến là các loại cây cỏ có dược tính chữa bệnh, hiện diện rất nhiều trong thiên nhiên hoang dã!

Phương Nam nhiều sông rạch, đất thấp, mưa nhiều, nên các loài thực vật phát triển mạnh mẽ. Ta dễ bắt gặp các loại rau, cây thuốc hoang dã dồi dào ở khắp nơi thời ấy như đọt choại, còn có tên gọi rau chạy, rau choại, đọt chạy, dây choại…

Đây là loại rau rừng có rất nhiều ở các vùng đất thấp thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Rau choại toàn thân có màu xanh đọt chuối, mọc thành bụi, lá già trông tựa lá dương xỉ, có vị chát, hơi nhẫn, hậu ngọt. Đọt choại dùng để luộc, nấu canh, xào, chấm mắm kho, nước thịt, cá kho ăn rất ngon. Ngày nay ở vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ, Đồng Tháp Mười còn rất nhiều rau đọt choại được cư dân sử dụng thường ngày trong cơ cấu bữa ăn…

Rau choại đã đi vào văn chương bình dân: “Rủ nhau lên đất bảy làng/ Hái rau choại chột, nhổ bàng về đương/ Choại chột thì chấm nước tương/ Bàng thì đương nóp người thương tôi nằm” (Ca dao Đồng Tháp Mười).

Một loại rau phổ biến ngày ấy nữa là rau dừa, mọc nhiều ở những cánh đồng hoang, mương lạch nước cạn, nhiều ánh sáng, có khắp ở những vùng đất thường xuyên ngập nước, những vùng đất có chế độ bán nhật triều (ngày hai con nước lớn ròng). Rau dừa dùng để luộc, nấu canh ăn sống, chấm mắm.

Ngoài dùng để ăn, rau dừa còn là vị thuốc dân gian có rất nhiều công dụng chữa bệnh. Ngoài ra còn có rất nhiều loại rau thân thảo như: bạc hà (dọc mùng), cải trời, mã đề, rau dớn, rau má, rau nhái, sương sáo, thù lù, rau cần nước, rau lưỡi bò, rau tai voi.

Có thể nói thời khẩn hoang với môi trường hoang dã, thực phẩm trong tự nhiên dồi dào, sạch, bổ dưỡng, đó là một yếu tố quan trọng, đóng góp lớn trong công cuộc khai mở đất, định cư, ổn định đời sống và phát triển sản xuất, hình thành nên những cụm dân cư, xóm làng trù phú. Lương thực, thực phẩm từ sản xuất, đánh bắt đủ sống đến có dư dả thành những sản phẩm hàng hóa phục vụ cho mua bán trao đổi với các vùng miền khác.

Có một vấn đề hệ trọng thời ấy là thuốc men chữa bệnh… Ở xa những trung tâm, thị tứ. Giao thông, đi lại vô cùng khó khăn, do đó đau ốm là vấn đề đáng sợ đối với những lưu dân thuở ấy! Cái khó ló cái khôn. Chính cây cỏ có dược tính đã góp phần lớn giải quyết vấn nạn này. Đã có nhiều thầy thuốc Nam dùng thảo dược hoang dã, bản địa trị bệnh cho nhân dân có hiệu quả.

Ở mỗi cụm dân cư, làng thôn thường có các thầy lang với phương châm “Nam dược trị Nam nhân”! Có nhiều loại rau, cây cỏ rất phổ biến có tác dụng chữa bệnh còn được dân gian sử dụng đến ngày nay đã được khoa học công nhận, đơn cử như: Cỏ cứt lợn, còn gọi là cây hoa ngũ vị, cây hoa ngũ sắc, cây bù xít, thắng hồng kế, cỏ hôi, có nhiều trong đất vườn, bờ ruộng. Đây là loại thuốc trị ho, cảm, cúm thông thường rất hiệu nghiệm. Thao tác chế biến rất đơn giản: dùng vài thân lá tươi đâm dập với chút muối, vắt lấy nước uống vài lần sẽ khỏi.

Ngoài ra còn có cây cỏ mực hay cây rau mực, nhọ nồi, hạn liên thảo. Đây là một cây thuốc quý dân gian, mọc hoang dại khắp nơi ở đất ẩm thấp. Các nghiên cứu về y dược cho biết cỏ mực trị đến 34 thứ bệnh! Dân gian ngày xưa thường dùng cỏ mực trị xuất huyết nội tạng, ho ra máu, chảy máu lợi, nướu răng, sưng gan, bàng quang, đường tiểu, băng bó vết thương, giúp mau liền xương, trị viêm sốt và rất nhiều bệnh khác…

Trong thiên nhiên hoang dã của Nam bộ còn có vô số các loài cây, rau có giá trị dinh dưỡng và trị bệnh như: móp gai, nghệ, lá lốt, cát lồi, thù lù, gừng gió, mã đề, rau dừa, kinh giới, gạc nai, nhãn lồng, vông nem, rau sam… Hầu như các loại cây rau, hoa quả của phương Nam đều có dược tính.

Thời khẩn hoang cách nay đã khá xa, lúc khoa học, y học chưa tiến bộ, phát triển như bây giờ. Trong điều kiện rất khó khăn ấy, tiền nhân ta, những người đi mở đất đã rất kiên cường, thông minh, sáng tạo, biết dựa vào thiên nhiên để tồn tại.

Cây thuốc, rau cỏ hoang dã được tận dụng, sử dụng trị bệnh, làm thức ăn, tạo ra nguồn năng lượng dồi dào giúp lưu dân đầy đủ sức khỏe, no bụng, chống chọi, đẩy lùi bệnh tật, vững vàng, ổn định, phát triển trên vùng đất mới phương Nam. Ngày nay, các loại rau hoang dã rất được người tiêu dùng ưa chuộng, riêng, các loại thảo dược thiên nhiên đã trở thành nguồn dược liệu, thuốc chữa bệnh (Đông y), góp phần đáng kể trong hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia.

HẢI HỒ

;
;
.
.

 

Nguồn: Báo Đà Nẵng

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

20 − mười lăm =